Virus tin học hiện nay đang là nỗi băn khoăn lo lắng của những người làm công tác tin học, là nỗi lo sợ của những người sử dụng khi máy tính của mình bị nhiễm virus. Khi máy tính của mình bị nhiễm virus, họ chỉ biết trông chờ vào các phần mềm diệt virus hiện có trên thị trường, trong trường hợp các phần mềm này không phát hiện hoặc không tiêu diệt được, họ bị lâm phải tình huống rất khó khăn, không biết phải làm như thế nào.
Vì lý do đó, có một cách nhìn nhận cơ bản về cơ chế và các nguyên tắc hoạt động của virus tin học là cần thiết. Trên cơ sở đó, có một cách nhìn đúng đắn về virus tin học trong việc phòng chống, kiểm tra, chữa trị cũng như cách phân tích, nghiên cứu một virus mới xuất hiện.
I. Virus tin học.
Thuật ngữ virus tin học dùng để chỉ một chương trình máy tính có thể tự sao chép chính nó lên nơi khác (đĩa hoặc file) mà người sử dụng không hay biết. Ngoài ra, một đặc điểm chung thường thấy trên các virus tin học là tính phá hoại, nó gây ra lỗi thi hành, thay đổi vị trí, mã hoá hoặc huỷ thông tin trên đĩa.
II. Phân loại:
Thông thường, dựa vào đối tượng lây lan là file hay đĩa mà virus được chia thành hai nhóm chính:
- B-virus: Virus chỉ tấn công lên Master Boot hay Boot Sector.
- F-virus: Virus chỉ tấn công lên các file khả thi.
Mặc dù vậy, cách phân chia này cũng không hẳn là chính xác. Ngoại lệ vẫn có các virus vừa tấn công lên Master Boot (Boot Sector) vừa tấn công lên file khả thi.
Ðể có một cách nhìn tổng quan về virus, chúng ta xem chúng dành quyền điều khiển như thế nào.
a. B-virus.
Khi máy tính bắt đầu khởi động (Power on), các thanh ghi phân đoạn đều được đặt về 0FFFFh, còn mọi thanh ghi khác đều được đặt về 0. Như vậy, quyền điều khiển ban đầu được trao cho đoạn mã tại 0FFFFh: 0h, đoạn mã này thực ra chỉ là lệnh nhảy JMP FAR đến một đoạn chương trình trong ROM, đoạn chương trình này thực hiện quá trình POST (Power On Self Test - Tự kiểm tra khi khởi động).
Quá trình POST sẽ lần lượt kiểm tra các thanh ghi, kiểm tra bộ nhớ, khởi tạo các Chip điều khiển DMA, bộ điều khiển ngắt, bộ điều khiển đĩa... Sau đó nó sẽ dò tìm các Card thiết bị gắn thêm để trao quyền điều khiển cho chúng tự khởi tạo rồi lấy lại quyền điều khiển. Chú ý rông đây là đoạn chương trình trong ROM (Read Only Memory) nên không thể sửa đổi, cũng như không thể chèn thêm một đoạn mã nào khác.
Sau quá trình POST, đoạn chương trình trong ROM tiến hành đọc Boot Sector trên đĩa A hoặc Master Boot trên đĩa cứng vào RAM (Random Acess Memory) tại địa chỉ 0:7C00h và trao quyền điều khiển cho đoạn mã đó bông lệnh JMP FAR 0:7C00h. Ðây là chỗ mà B-virus lợi dụng để tấn công vào Boot Sector (Master Boot), nghĩa là nó sẽ thay Boot Sector (Master Boot) chuẩn bông đoạn mã virus, vì thế quyền điều khiển được trao cho virus, nó sẽ tiến hành các hoạt động của mình trước, rồi sau đó mới tiến hành các thao tác như thông thường: Ðọc Boot Sector (Master Boot) chuẩn mà nó cất giấu ở đâu đó vào 0:7C00h rồi trao quyền điều khiển cho đoạn mã chuẩn này, và người sử dụng có cảm giác rông máy tính của mình vẫn hoạt động bình thường.
b. F-virus.
Khi DOS tổ chức thi hành File khả thi (bông chức năng 4Bh của ngắt 21h), nó sẽ tổ chức lại vùng nhớ, tải File cần thi hành và trao quyền điều khiển cho File đó. F-virus lợi dụng điểm này bông cách gắn đoạn mã của mình vào file đúng tại vị trí mà DOS trao quyền điều khiển cho File sau khi đã tải vào vùng nhớ. Sau khi F-virus tiến hành xong các hoạt động của mình, nó mới sắp xếp, bố trí trả lại quyền điều khiển cho File để cho File lại tiến hành hoạt động bình thường, và người sử dụng thì không thể biết được.
Trong các loại B-virus và F-virus, có một số loại sau khi dành được quyền điều khiển, sẽ tiến hành cài đặt một đoạn mã của mình trong vùng nhớ RAM như một chương trình thường trú (TSR), hoặc trong vùng nhớ nôm ngoài tầm kiểm soát của DOS, nhôm mục đích kiểm soát các ngắt quan trọng như ngắt 21h, ngắt 13h,... Mỗi khi các ngắt này được gọi, virus sẽ dành quyền điều khiển để tiến hành các hoạt động của mình trước khi trả lại các ngắt chuẩn của DOS.
III. Các đặc điểm của B-VIRUS.
Qua chương trước, chúng ta đã đưa ra các thông tin hết sức cơ bản về cấu trúc đĩa, tiến trình khởi động và cách thức tổ chức vùng nhớ, tổ chức thi hành file của DOS. Những thông tin đó giúp chúng ta tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của virus, từ đó đưa ra cách phòng chống, chữa trị trong trường hợp máy bị nhiễm virus.
1. Phân loại B-virus.
Như chúng ta đã biết, sau quá trình POST, sector đầu tiên trên đĩa A hoặc đĩa C được đọc vào vùng nhớ tại 0: 7C00, và quyền điều khiển được trao cho đoạn mã trong sector khởi động này. B-virus hoạt động bông cách thay thế đoạn mã chuẩn trong sector khởi động này bông đoạn mã của nó để chiếm quyền điều khiển, sau khi đã cài đặt xong mới đọc sector khởi động chuẩn được virus cất giữ ở đâu đó vào 0:7C00 và trả lại quyền điều khiển cho đoạn mã chuẩn này. Việc cất giữ sector khởi động tại vị trí nào trên đĩa tuỳ thuộc loại đĩa và cách giải quyết của từng loại virus. Ðối với đĩa cứng, thông thường nó được cất giữ ở đâu đó trong Side 0, Cylinder 0 vì trong cả track này, DOS chỉ sử dụng sector đầu tiên cho bảng Partition. Trên đĩa mềm, vị trí cất giữ sẽ phức tạp hơn vì mọi chỗ đều có khả năng bị ghi đè thông tin. Một số hướng sau đây đã được các virus áp dụng:
Sử dụng sector ở cuối Root Directory, vì nó thường ít được sử dụng.
Sử dụng các sector cuối cùng trên đĩa, vì khi phân bổ vùng trống cho file, DOS tìm vùng trống từ nhỏ đến lớn cho nên vùng này thường ít được sử dụng.
Ghi vào vùng trống trên đĩa, đánh dấu trong bảng FAT vùng này là vùng bị hỏng để DOS không sử dụng cấp phát nữa. Ccáh làm này an toàn hơn các cách làm trên đây.
Format thêm track và ghi vào track vừa được Format thêm.
Tùy thuộc vào độ lớn của đoạn mã virus mà B-virus được chia thành hai loại:
a. SB-virus.
Chương trình của SB-virus chỉ chiếm đúng một sector khởi động, các tác vụ của SB-virus không nhiều và tương đối đơn giản. Hiện nay số các virus loại này thường ít gặp và có lẽ chỉ là các virus do trong nước "sản xuất".
b. DB-virus.
Ðây là những loại virus mà đoạn mã của nó lớn hơn 512 byte (thường thấy).
Vì thế mà chương trình virus được chia thành hai phần:
- Phần đầu virus: Ðược cài đặt trong sector khởi động để chiếm quyền điều hiển khi quyền điều khiển được trao cho sector khởi động này. Nhiệm vụ duy nhất của phần đầu là: tải tiếp phần thân của virus vào vùng nhớ và trao quyền điều khiển cho phần thân đó. Vì nhiệm vụ đơn giản như vậy nên phần đầu của virus thường rất ngắn, và càng ngắn càng tốt vì càng ngắn thì sự khác biệt giữa sector khởi động chuẩn và sector khởi động đã bị nhiễm virus càng ít, giảm khả năng bị nghi ngờ.
- Phần thân virus: Là phần chương trình chính của virus. Sau khi được phần đầu tải vào vùng nhớ và trao quyền, phần thân này sẽ tiến hành các tác vụ của mình, sau khi tiến hành xong mới đọc sector khởi động chuẩn vào vùng nhớ và trao quyền cho nó để máy tính làm việc một cách bình thường như chưa có gì xảy ra cả.
2. Một số kỹ thuật cơ bản của B-virus.
Dù là SB-virus hay DB-virus, nhưng để tồn tại và lây lan, chúng đều có một số các kỹ thuật cơ bản như sau:
a. Kỹ thuật kiểm tra tính duy nhất.
Virus phải tồn tại trong bộ nhớ cũng như trên đĩa, song sự tồn tại quá nhiều bản sao của chính nó trên đĩa và trong bộ nhớ sẽ chỉ làm chậm quá trình Boot máy, cũng như chiếm quá nhiều vùng nhớ ảnh hưởng tới việc tải và thi hành các chương trình khác đồng thời cũng làm giảm tốc độ truy xuất đĩa. Chính vì thế, kỹ thuật này là một yêu cầu nghiêm ngặt với B-virus.
Việc kiểm tra trên đĩa có hai yếu tố ảnh hưởng:
Thứ nhất là thời gian kiểm tra:
Nếu mọi tác vụ đọc/ghi đĩa đều phải kiểm tra đĩa thì thời gian truy xuất sẽ bị tăng gấp đôi, làm giảm tốc độ truy xuất cũng như gia tăng mỗi nghi ngờ.
Ðối với yêu cầu này, các virus áp dụng một số kỹ thuật sau: Giảm số lần kiểm tra bông cách chỉ kiểm tra trong trường hợp thay đổi truy xuất từ ổ đĩa này sang ổ đĩa khác, chỉ kiểm tra trong trường hợp bảng FAT trên đĩa được đọc vào.
Thứ hai là kỹ thuật kiểm tra:
Hầu hết các virus đều kiểm tra bông giá trị từ khoá. Mỗi virus sẽ tạo cho mình một giá trị đặc biệt tại một vị trí xác định trên đĩa, việc kiểm tra được tiến hành bông cách đọc Boot record và kiểm tra giá trị của từ khoá này. Kỹ thuật này gặp trở ngại vì số lượng B-virus ngày một đông đảo, mà vị trí trên Boot Record thì có hạn. Cách khắc phục hiện nay của các virus là tăng số lượng mã lệnh cần so sánh để làm giảm khả năng trùng hợp ngẫu nhiên.
Ðể kiểm tra sự tồn tại của mình trong bộ nhớ, các virus đã áp dụng các kỹ thuật sau: Ðơn giản nhất là kiểm tra giá trị Key value tại một vị trí xác định trên vùng nhớ cao, ngoài ra một kỹ thuật khác được áp dụng đối với các virus chiếm ngắt Int 21 của DOS là yêu cầu thực hiện một chức năng đặc biệt không có trong ngắt này. Nếu cờ báo lỗi được bật lên thì trong bộ nhớ chưa có virus, ngược lại nếu virus đã lưu trú trong vùng nhớ thì giá trị trả lại (trong thanh ghi AX chẳng hạn) là một giá trị xác định nào đó.
b. Kỹ thuật lưu trú.
Sau khi thực hiện xong chương trình POST, giá trị tổng số vùng nhớ vừa được Test sẽ được lưu vào vùng BIOS Data ở địa chỉ 0:413h. Khi hệ điều hành nhận quyền điều khiển, nó sẽ coi vùng nhớ mà nó kiểm soát là giá trị trong địa chỉ này. Vì vậy để lưu trú, mọi B-virus đều áp dụng kỹ thuật sau đây: Sau khi tải phần lưu trú của mình lên vùng nhớ cao, nó sẽ giảm giá trị vùng nhớ do DOS quản lý tại 0:413h đi một lượng đúng bông kích thước của virus. Tuy nhiên nếu không kiểm tra tốt sự có mặt trong vùng nhớ, khi bị Boot mềm liên tục, giá trị tổng số vùng nhớ này sẽ bị giảm nhiều lần, ảnh hưởng tới việc thực hiện của các chương trình sau này. Chính vì thế, các virus được thiết kế tốt phải kiểm tra sự tồn tại của mình trong bộ nhớ, nếu đã có mặt trong bộ nhớ thì không giảm dung lượng vùng nhớ nữa.
c. Kỹ thuật lây lan.
Ðoạn mã thực hiện nhiệm vụ lây lan là đoạn mã quan trọng trong chương trình virus. Ðể đảm bảo việc lây lan, virus khống chế ngắt quan trọng nhất trong việc đọc/ghi vùng hệ thống: đó là ngắt 13h, tuy nhiên để đảm bảo tốc độ truy xuất đĩa, chỉ các chức năng 2 và 3 (đọc/ghi) là dẫn tới việc lây lan. Việc lây lan bông cách đọc Boot Sector (Master Boot) lên và kiểm tra xem đã bị lây chưa (kỹ thuật kiểm tra đã nói ở trên). Nếu sector khởi động đó chưa bị nhiễm thì virus sẽ tạo một sector khởi động mới với các tham số tương ứng của đoạn mã virus rồi ghi trở lại vào vị trí của nó trên đĩa. Còn sector khởi động vừa đọc lên cùng với thân của virus (loại DB-virus) sẽ được ghi vào vùng xác định trên đĩa. Ngoài ra một số virus còn chiếm ngắt 21 của DOS để lây nhiễm và phá hoại trên các file mà ngắt 21 làm việc.
Việc xây dựng sector khởi động có đoạn mã của virus phải đảm bảo các kỹ thuật sau đây:
- Sector khởi động bị nhiễm phải còn chứa các tham số đĩa phục vụ cho quá trình truy xuất đĩa, đó là bảng tham số BPB của Boot record hay bảng phân chương trong trường hợp Master boot. Việc không bảo toàn sẽ dẫn đến việc virus mất quyền điều khiển hoặc không thể kiểm soát được đĩa nếu virus không có mặt trong môi trường.
- Sự an toàn của sector khởi động nguyên thể và đoạn thân của virus cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các kỹ thuật về vị trí cất giấu chúng ta cũng đã phân tích ở các phần trên.
d. Kỹ thuật ngụy trang và gây nhiễu.
Kỹ thuật này ra đời khá muộn về sau này, do khuynh hướng chống lại sự phát hiện của người sử dụng và những lập trình viên đối với virus. Vì kích thước của virus khá nhỏ bé cho nên các lập trình viên hoàn toàn có thể dò từng bước xem cơ chế của virus hoạt động như thế nào, cho nên các virus tìm mọi cách lắt léo để chống lại sự theo dõi của các lập trình viên.
Các virus thường áp dụng một số kỹ thuật sau đây:
- Cố tình viết các lệnh một cách rắc rối như đặt Stack vào các vùng nhớ nguy hiểm, chiếm và xoá các ngắt, thay đổi một cách lắt léo các thanh ghi phân đoạn để người dò không biết dữ liệu lấy từ đâu, thay đổi các giá trị của các lệnh phía sau để người sử dụng khó theo dõi.
- Mã hoá ngay chính chương trình của mình để người sử dụng không phát hiện ra quy luật, cũng như không thấy một cách rõ ràng ngay sự hoạt động của virus.
- Ngụy trang: Cách thứ nhất là đoạn mã cài vào sector khởi động càng ngắn càng tốt và càng giống sector khởi động càng tốt. Tuy vậy cách thứ hai vẫn được nhiều virus áp dụng: Khi máy đang nôm trong quyền chi phối của virus, mọi yêu cầu đọc/ghi Boot sector (Master boot) đều được virus trả về một bản chuẩn: bản trước khi bị virus lây. Ðiều này đánh lừa người sử dụng và các chương trình chống virus không được thiết kế tốt nếu máy hiện đang chịu sự chi phối của virus.
e. Kỹ thuật phá hoại.
Ðã là virus thì bao giờ cũng có tính phá hoại. Có thể phá hoại ở mức đùa cho vui, cũng có thể là phá hoại ở mức độ nghiêm trọng, gây mất mát và đình trệ đối với thông tin trên đĩa.
Căn cứ vào thời điểm phá hoại, có thể chia ra thành hai loại:
- Loại định thời: Loại này lưu giữ một giá trị, giá trị này có thể là ngày giờ, số lần lây nhiễm, số giờ máy đã chạy, ... Nếu giá trị này vượt quá một con số cho phép, nó sẽ tiến hành phá hoại. Loại này thường nguy hiểm vì chúng chỉ phá hoại một lần.
- Loại liên tục: Sau khi bị lây nhiễm và liên tục, virus tiến hành phá hoại, song do tính liên tục này, các hoạt động phá hoại của nó không mang tính nghiêm trọng, chủ yếu là đùa cho vui.
IV. Các đặc điểm của F-VIRUS
So với B-virus thì số lượng F-virus đông đảo hơn nhiều, có lẽ do các tác vụ đĩa với sự hỗ trợ của Int 21 đã trở nên cực kỳ dễ dàng và thoải mái, đó là điều kiện phát triển cho các F-virus.
Thường thì các F-virus chỉ lây lan trên các file khả thi (có đuôi .COM hoặc .EXE), tuy nhiên một nguyên tắc mà virus phải tuân thủ là: Khi thi hành một file khả thi bị lây nhiễm, quyền điều khiển phải nôm trong tay virus trước khi virus trả nó lại cho file bị nhiễm, và khi file nhận lại quyền điều khiển, tất cả mọi dữ liệu của file phải được bảo toàn.
Ðối với F-virus, có một số kỹ thuật được nêu ra ở đây:
1. Kỹ thuật lây lan:
Các F-virus chủ yếu sử dụng hai kỹ thuật: Thêm vào đầu và thêm vào cuối
a. Thêm vào đầu file.
Thông thường, phương pháp này chỉ áp dụng cho các file .COM, tức là đầu vào của chương trình luôn luôn tại PSP:100h. Lợi dụng đầu vào cố định, virus chèn đoạn mã của chương trình virus vào đầu chương trình đối tượng, đẩy toàn bộ chương trình đối tượng xuống phía dưới. Cách này có một nhược điểm là do đầu vào cố định của chương trình .COM là PSP:100, cho nên trước khi trả lại quyền điều khiển cho chương trình, phải đẩy lại toàn bộ chương trình lên bắt đầu từ offset 100h. Cách lây này gây khó khăn cho những người khôi phục vì phải đọc toàn bộ file vào vùng nhớ rồi mới tiến hành ghi lại.
b. Thêm vào cuối file.
Khác với cách lây lan ở trên, trong phương pháp này, đoạn mã của virus sẽ được gắn vào sau của chương trình đối tượng. Phương pháp này được thấy trên hầu hết các loại virus vì phạm vi lây lan của nó rộng rãi hơn phương pháp trên.
Do thân của virus không nôm đúng đầu vào của chương trình, cho nên để chiếm quyền điều khiển, phải thực hiện kỹ thuật sau đây:
- Ðối với file .COM: Thay các byte đầu tiên của chương trình (đầu vào) bông một lệnh nhảy JMP, chuyển điều khiển đến đoạn mã của virus.
E9 xx xx JMP Entry virus.
- Ðối với file .EXE: Chỉ cần định vị lại hệ thống các thanh ghi SS, SP, CS, IP trong Exe Header để trao quyền điều khiển cho phần mã virus.
Ngoài hai kỹ thuật lây lan chủ yếu trên, có một số ít các virus sử dụng một số các kỹ thuật đặc biệt khác như mã hoá phần mã của chương trình virus trước khi ghép chúng vào file để ngụy trang, hoặc thậm chí thay thế một số đoạn mã ngắn trong file đối tượng bông các đoạn mã của virus, gây khó khăn cho quá trình khôi phục.
Khi tiến hành lây lan trên file, đối với các file được đặt các thuộc tính Sys (hệ thống), Read Only (chỉ đọc), Hidden (ẩn), phải tiến hành đổi lại các thuộc tính đó để có thể truy nhập, ngoài ra việc truy nhập cũng thay đổi lại ngày giờ cập nhật của file, vì thế hầu hết các virus đều lưu lại thuộc tính, ngày giờ cập nhật của file để sau khi lây nhiễm sẽ trả lại y nguyên thuộc tính và ngày giờ cập nhật ban đầu của nó.
Ngoài ra, việc cố gắng ghi lên đĩa mềm có dán nhãn bảo vệ cũng tạo ra dòng thông báo lỗi của DOS: Retry - Aboart - Ignoreô, nếu không xử lý tốt thì dễ bị người sử dụng phát hiện ra sự có mặt của virus. Lỗi kiểu này được DOS kiểm soát bông ngắt 24h, cho nên các virus muốn tránh các thông báo kiểu này của DOS khi tiến hành lây lan phải thay ngắt 24h của DOS trước khi tiến hành lây lan rồi sau đó hoàn trả.
2. Kỹ thuật đảm bảo tính tồn tại duy nhất.
Cũng giống như B-virus, một yêu cầu nghiêm ngặt đặt ra đối với F-virus là tính tồn tại duy nhất của mình trong bộ nhớ cũng như trên file.
Trong vùng nhớ, thông thường các F-virus sử dụng hai kỹ thuật chính: Thứ nhất là tạo thêm chức năng cho DOS, bông cách sử dụng một chức năng con nào đó trong đó đặt chức năng lớn hơn chức năng cao nhất mà DOS có. Ðể kiểm tra chỉ cần gọi chức năng này, giá trị trả lại trong thanh ghi quyết định sự tồn tại của virus trong bộ nhớ hay chưa. Cách thứ hai là so sánh một đoạn mã trong vùng nhớ ấn định với đoạn mã của virus, nếu có sự chênh lệch thì có nghĩa là virus chưa có mặt trong vùng nhớ và sẽ tiến hành lây lan.
Trên file, có thể có các cách kiểm tra như kiểm tra bông test logic nào đó với các thông tin của Entry trong thư mục của file này. Cách này không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối song nếu thiết kế tốt thì khả năng trùng lặp cũng hạn chế, hầu như không có, ngoài ra một ưu điểm là tốc độ thực hiện kiểm tra rất nhanh. Ngoài ra có thể kiểm tra bông cách dò một đoạn mã đặc trưng (key value) của virus tại vị trí ấn định nào đó trên file, ví dụ trên các byte cuối cùng của file.
3. Kỹ thuật thường trú
Ðây là một kỹ thuật khó khăn, lý do là DOS chỉ cung cấp chức năng thường trú cho chương trình, nghĩa là chỉ cho phép cả chương trình thường trú. Vì vậy nếu sử dụng chức năng của DOS, chương trình virus muốn thường trú thì cả file đối tượng cũng phải thường trú, mà điều này thì không thể được nếu kích thước của file đối tượng quá lớn.
Chính vì lý do trên, hầu hết các chương trình virus muốn thường trú đều phải thao tác qua mặt DOS trên chuỗi MCB bông phương pháp "thủ công". Căn cứ vào việc thường trú được thực hiện trước hay sau khi chương trình đối tượng thi hành, có thể chia kỹ thuật thường trú thành hai nhóm:
a. Thường trú trước khi trả quyền điều khiển.
Như đã nói ở trên, DOS không cung cấp một chức năng nào cho kiểu thường trú này, cho nên chương trình virus phải tự thu xếp. Các cách sau đây đã được virus dùng đến:
- Thao tác trên MCB để tách một khối vùng nhớ ra khỏi quyền điều khiển của DOS, rồi dùng vùng này để chứa chương trình virus.
- Tự định vị vị trí trong bộ nhớ để tải phần thường trú của virus vào, thường thì các virus chọn ở vùng nhớ cao, phía dưới phần tạm trú của file command.com để tránh bị ghi đè khi hệ thống tải lại command.com. Vì không cấp phát bọ nhớ cho phần chương trình virus đang thường trú, cho nên command.com hoàn toàn có quyền cấp phát vùng nhớ đó cho các chương trình khác, nghĩa là chương trình thương trú của virus phải chấp nhận sự mất mát do may rủi.
- Thường trú bông chức năng thường trú 31h: Ðây là một kỹ thuật phức tạp, tiến trình cần thực hiện được mô tả như sau:
Khi chương trình virus được trao quyền, nó sẽ tạo ra một MCB được khai báo là phần tử trung gian trong chuỗi MCB để chứa chương trình virus, sau đó lại tạo tiếp một MCB mới để cho chương trình bị nhiễm bông cách dời chương trình xuống vùng mới này. Ðể thay đổi PSP mà DOS đang lưu giữ thành PSP mà chương trình virus tạo ra cho chương trình đối tượng, phải sử dụng chức năng 50h của ngắt 21h.
b. Thường trú sau khi đoạt lại quyền điều khiển.
Chương trình virus lấy tên chương trình đang thi hành trong môi trường của DOS, rồi nó thi hành ngay chính bản thân mình. Sau khi thi hành xong, quyền điều khiển lại được trả về cho virus, và khi đó nó mới tiến hành thường trú một cách bình thường bông chức năng 31h của ngắt 21h.
4. Kỹ thuật ngụy trang và gây nhiễu
Một nhược điểm không tránh khỏi là file đối tượng bị lây nhiễm virus sẽ bị tăng kích thước. Một số virus ngụy trang bông cách khi sử dụng chức năng DIR của DOS, virus chi phối chức năng tìm kiếm file (chức năng 11h và 12h của ngắt 21h) để giảm kích thước của file bị lây nhiễm xuống, vì thế khi virus đang chi phối máy tính, nếu sử dụng lệnh DIR của DOS, hoặc các lệnh sử dụng chức năng tìm kiếm file ở trên để có thông tin về entry trong bảng thư mục, thì thấy kích thước file bị lây nhiễm vẫn bông kích thước của file ban đầu, điều này đánh lừa người sử dụng về sự trong sạch của file này.
Một số virus còn gây nhiễu bông cách mã hoá phần lớn chương trình virus, chỉ khi nào vào vùng nhớ, chương trình mới được giải mã ngược lại. Một số virus anti-debug bông cách chiếm ngắt 1 và ngắt 3. Bởi vì các chương trình debug thực chất phải dùng ngắt 1 và ngắt 3 để thi hành từng bước một, cho nên khi virus chiếm các ngắt này rồi mà người lập trình dùng debug để theo dõi virus thì kết quả không lường trước được.
5. Kỹ thuật phá hoại
Thông thường, các F-virus cũng sử dụng cách thức và kỹ thuật phá hoại giống như B-virus. Có thể phá hoại một cách định thời, liên tục hoặc ngẫu nhiên. Ðối tượng phá hoại có thể là màn hình, loa, đĩa,...
Theo HVA
Vì lý do đó, có một cách nhìn nhận cơ bản về cơ chế và các nguyên tắc hoạt động của virus tin học là cần thiết. Trên cơ sở đó, có một cách nhìn đúng đắn về virus tin học trong việc phòng chống, kiểm tra, chữa trị cũng như cách phân tích, nghiên cứu một virus mới xuất hiện.
I. Virus tin học.
Thuật ngữ virus tin học dùng để chỉ một chương trình máy tính có thể tự sao chép chính nó lên nơi khác (đĩa hoặc file) mà người sử dụng không hay biết. Ngoài ra, một đặc điểm chung thường thấy trên các virus tin học là tính phá hoại, nó gây ra lỗi thi hành, thay đổi vị trí, mã hoá hoặc huỷ thông tin trên đĩa.
II. Phân loại:
Thông thường, dựa vào đối tượng lây lan là file hay đĩa mà virus được chia thành hai nhóm chính:
- B-virus: Virus chỉ tấn công lên Master Boot hay Boot Sector.
- F-virus: Virus chỉ tấn công lên các file khả thi.
Mặc dù vậy, cách phân chia này cũng không hẳn là chính xác. Ngoại lệ vẫn có các virus vừa tấn công lên Master Boot (Boot Sector) vừa tấn công lên file khả thi.
Ðể có một cách nhìn tổng quan về virus, chúng ta xem chúng dành quyền điều khiển như thế nào.
a. B-virus.
Khi máy tính bắt đầu khởi động (Power on), các thanh ghi phân đoạn đều được đặt về 0FFFFh, còn mọi thanh ghi khác đều được đặt về 0. Như vậy, quyền điều khiển ban đầu được trao cho đoạn mã tại 0FFFFh: 0h, đoạn mã này thực ra chỉ là lệnh nhảy JMP FAR đến một đoạn chương trình trong ROM, đoạn chương trình này thực hiện quá trình POST (Power On Self Test - Tự kiểm tra khi khởi động).
Quá trình POST sẽ lần lượt kiểm tra các thanh ghi, kiểm tra bộ nhớ, khởi tạo các Chip điều khiển DMA, bộ điều khiển ngắt, bộ điều khiển đĩa... Sau đó nó sẽ dò tìm các Card thiết bị gắn thêm để trao quyền điều khiển cho chúng tự khởi tạo rồi lấy lại quyền điều khiển. Chú ý rông đây là đoạn chương trình trong ROM (Read Only Memory) nên không thể sửa đổi, cũng như không thể chèn thêm một đoạn mã nào khác.
Sau quá trình POST, đoạn chương trình trong ROM tiến hành đọc Boot Sector trên đĩa A hoặc Master Boot trên đĩa cứng vào RAM (Random Acess Memory) tại địa chỉ 0:7C00h và trao quyền điều khiển cho đoạn mã đó bông lệnh JMP FAR 0:7C00h. Ðây là chỗ mà B-virus lợi dụng để tấn công vào Boot Sector (Master Boot), nghĩa là nó sẽ thay Boot Sector (Master Boot) chuẩn bông đoạn mã virus, vì thế quyền điều khiển được trao cho virus, nó sẽ tiến hành các hoạt động của mình trước, rồi sau đó mới tiến hành các thao tác như thông thường: Ðọc Boot Sector (Master Boot) chuẩn mà nó cất giấu ở đâu đó vào 0:7C00h rồi trao quyền điều khiển cho đoạn mã chuẩn này, và người sử dụng có cảm giác rông máy tính của mình vẫn hoạt động bình thường.
b. F-virus.
Khi DOS tổ chức thi hành File khả thi (bông chức năng 4Bh của ngắt 21h), nó sẽ tổ chức lại vùng nhớ, tải File cần thi hành và trao quyền điều khiển cho File đó. F-virus lợi dụng điểm này bông cách gắn đoạn mã của mình vào file đúng tại vị trí mà DOS trao quyền điều khiển cho File sau khi đã tải vào vùng nhớ. Sau khi F-virus tiến hành xong các hoạt động của mình, nó mới sắp xếp, bố trí trả lại quyền điều khiển cho File để cho File lại tiến hành hoạt động bình thường, và người sử dụng thì không thể biết được.
Trong các loại B-virus và F-virus, có một số loại sau khi dành được quyền điều khiển, sẽ tiến hành cài đặt một đoạn mã của mình trong vùng nhớ RAM như một chương trình thường trú (TSR), hoặc trong vùng nhớ nôm ngoài tầm kiểm soát của DOS, nhôm mục đích kiểm soát các ngắt quan trọng như ngắt 21h, ngắt 13h,... Mỗi khi các ngắt này được gọi, virus sẽ dành quyền điều khiển để tiến hành các hoạt động của mình trước khi trả lại các ngắt chuẩn của DOS.
III. Các đặc điểm của B-VIRUS.
Qua chương trước, chúng ta đã đưa ra các thông tin hết sức cơ bản về cấu trúc đĩa, tiến trình khởi động và cách thức tổ chức vùng nhớ, tổ chức thi hành file của DOS. Những thông tin đó giúp chúng ta tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của virus, từ đó đưa ra cách phòng chống, chữa trị trong trường hợp máy bị nhiễm virus.
1. Phân loại B-virus.
Như chúng ta đã biết, sau quá trình POST, sector đầu tiên trên đĩa A hoặc đĩa C được đọc vào vùng nhớ tại 0: 7C00, và quyền điều khiển được trao cho đoạn mã trong sector khởi động này. B-virus hoạt động bông cách thay thế đoạn mã chuẩn trong sector khởi động này bông đoạn mã của nó để chiếm quyền điều khiển, sau khi đã cài đặt xong mới đọc sector khởi động chuẩn được virus cất giữ ở đâu đó vào 0:7C00 và trả lại quyền điều khiển cho đoạn mã chuẩn này. Việc cất giữ sector khởi động tại vị trí nào trên đĩa tuỳ thuộc loại đĩa và cách giải quyết của từng loại virus. Ðối với đĩa cứng, thông thường nó được cất giữ ở đâu đó trong Side 0, Cylinder 0 vì trong cả track này, DOS chỉ sử dụng sector đầu tiên cho bảng Partition. Trên đĩa mềm, vị trí cất giữ sẽ phức tạp hơn vì mọi chỗ đều có khả năng bị ghi đè thông tin. Một số hướng sau đây đã được các virus áp dụng:
Sử dụng sector ở cuối Root Directory, vì nó thường ít được sử dụng.
Sử dụng các sector cuối cùng trên đĩa, vì khi phân bổ vùng trống cho file, DOS tìm vùng trống từ nhỏ đến lớn cho nên vùng này thường ít được sử dụng.
Ghi vào vùng trống trên đĩa, đánh dấu trong bảng FAT vùng này là vùng bị hỏng để DOS không sử dụng cấp phát nữa. Ccáh làm này an toàn hơn các cách làm trên đây.
Format thêm track và ghi vào track vừa được Format thêm.
Tùy thuộc vào độ lớn của đoạn mã virus mà B-virus được chia thành hai loại:
a. SB-virus.
Chương trình của SB-virus chỉ chiếm đúng một sector khởi động, các tác vụ của SB-virus không nhiều và tương đối đơn giản. Hiện nay số các virus loại này thường ít gặp và có lẽ chỉ là các virus do trong nước "sản xuất".
b. DB-virus.
Ðây là những loại virus mà đoạn mã của nó lớn hơn 512 byte (thường thấy).
Vì thế mà chương trình virus được chia thành hai phần:
- Phần đầu virus: Ðược cài đặt trong sector khởi động để chiếm quyền điều hiển khi quyền điều khiển được trao cho sector khởi động này. Nhiệm vụ duy nhất của phần đầu là: tải tiếp phần thân của virus vào vùng nhớ và trao quyền điều khiển cho phần thân đó. Vì nhiệm vụ đơn giản như vậy nên phần đầu của virus thường rất ngắn, và càng ngắn càng tốt vì càng ngắn thì sự khác biệt giữa sector khởi động chuẩn và sector khởi động đã bị nhiễm virus càng ít, giảm khả năng bị nghi ngờ.
- Phần thân virus: Là phần chương trình chính của virus. Sau khi được phần đầu tải vào vùng nhớ và trao quyền, phần thân này sẽ tiến hành các tác vụ của mình, sau khi tiến hành xong mới đọc sector khởi động chuẩn vào vùng nhớ và trao quyền cho nó để máy tính làm việc một cách bình thường như chưa có gì xảy ra cả.
2. Một số kỹ thuật cơ bản của B-virus.
Dù là SB-virus hay DB-virus, nhưng để tồn tại và lây lan, chúng đều có một số các kỹ thuật cơ bản như sau:
a. Kỹ thuật kiểm tra tính duy nhất.
Virus phải tồn tại trong bộ nhớ cũng như trên đĩa, song sự tồn tại quá nhiều bản sao của chính nó trên đĩa và trong bộ nhớ sẽ chỉ làm chậm quá trình Boot máy, cũng như chiếm quá nhiều vùng nhớ ảnh hưởng tới việc tải và thi hành các chương trình khác đồng thời cũng làm giảm tốc độ truy xuất đĩa. Chính vì thế, kỹ thuật này là một yêu cầu nghiêm ngặt với B-virus.
Việc kiểm tra trên đĩa có hai yếu tố ảnh hưởng:
Thứ nhất là thời gian kiểm tra:
Nếu mọi tác vụ đọc/ghi đĩa đều phải kiểm tra đĩa thì thời gian truy xuất sẽ bị tăng gấp đôi, làm giảm tốc độ truy xuất cũng như gia tăng mỗi nghi ngờ.
Ðối với yêu cầu này, các virus áp dụng một số kỹ thuật sau: Giảm số lần kiểm tra bông cách chỉ kiểm tra trong trường hợp thay đổi truy xuất từ ổ đĩa này sang ổ đĩa khác, chỉ kiểm tra trong trường hợp bảng FAT trên đĩa được đọc vào.
Thứ hai là kỹ thuật kiểm tra:
Hầu hết các virus đều kiểm tra bông giá trị từ khoá. Mỗi virus sẽ tạo cho mình một giá trị đặc biệt tại một vị trí xác định trên đĩa, việc kiểm tra được tiến hành bông cách đọc Boot record và kiểm tra giá trị của từ khoá này. Kỹ thuật này gặp trở ngại vì số lượng B-virus ngày một đông đảo, mà vị trí trên Boot Record thì có hạn. Cách khắc phục hiện nay của các virus là tăng số lượng mã lệnh cần so sánh để làm giảm khả năng trùng hợp ngẫu nhiên.
Ðể kiểm tra sự tồn tại của mình trong bộ nhớ, các virus đã áp dụng các kỹ thuật sau: Ðơn giản nhất là kiểm tra giá trị Key value tại một vị trí xác định trên vùng nhớ cao, ngoài ra một kỹ thuật khác được áp dụng đối với các virus chiếm ngắt Int 21 của DOS là yêu cầu thực hiện một chức năng đặc biệt không có trong ngắt này. Nếu cờ báo lỗi được bật lên thì trong bộ nhớ chưa có virus, ngược lại nếu virus đã lưu trú trong vùng nhớ thì giá trị trả lại (trong thanh ghi AX chẳng hạn) là một giá trị xác định nào đó.
b. Kỹ thuật lưu trú.
Sau khi thực hiện xong chương trình POST, giá trị tổng số vùng nhớ vừa được Test sẽ được lưu vào vùng BIOS Data ở địa chỉ 0:413h. Khi hệ điều hành nhận quyền điều khiển, nó sẽ coi vùng nhớ mà nó kiểm soát là giá trị trong địa chỉ này. Vì vậy để lưu trú, mọi B-virus đều áp dụng kỹ thuật sau đây: Sau khi tải phần lưu trú của mình lên vùng nhớ cao, nó sẽ giảm giá trị vùng nhớ do DOS quản lý tại 0:413h đi một lượng đúng bông kích thước của virus. Tuy nhiên nếu không kiểm tra tốt sự có mặt trong vùng nhớ, khi bị Boot mềm liên tục, giá trị tổng số vùng nhớ này sẽ bị giảm nhiều lần, ảnh hưởng tới việc thực hiện của các chương trình sau này. Chính vì thế, các virus được thiết kế tốt phải kiểm tra sự tồn tại của mình trong bộ nhớ, nếu đã có mặt trong bộ nhớ thì không giảm dung lượng vùng nhớ nữa.
c. Kỹ thuật lây lan.
Ðoạn mã thực hiện nhiệm vụ lây lan là đoạn mã quan trọng trong chương trình virus. Ðể đảm bảo việc lây lan, virus khống chế ngắt quan trọng nhất trong việc đọc/ghi vùng hệ thống: đó là ngắt 13h, tuy nhiên để đảm bảo tốc độ truy xuất đĩa, chỉ các chức năng 2 và 3 (đọc/ghi) là dẫn tới việc lây lan. Việc lây lan bông cách đọc Boot Sector (Master Boot) lên và kiểm tra xem đã bị lây chưa (kỹ thuật kiểm tra đã nói ở trên). Nếu sector khởi động đó chưa bị nhiễm thì virus sẽ tạo một sector khởi động mới với các tham số tương ứng của đoạn mã virus rồi ghi trở lại vào vị trí của nó trên đĩa. Còn sector khởi động vừa đọc lên cùng với thân của virus (loại DB-virus) sẽ được ghi vào vùng xác định trên đĩa. Ngoài ra một số virus còn chiếm ngắt 21 của DOS để lây nhiễm và phá hoại trên các file mà ngắt 21 làm việc.
Việc xây dựng sector khởi động có đoạn mã của virus phải đảm bảo các kỹ thuật sau đây:
- Sector khởi động bị nhiễm phải còn chứa các tham số đĩa phục vụ cho quá trình truy xuất đĩa, đó là bảng tham số BPB của Boot record hay bảng phân chương trong trường hợp Master boot. Việc không bảo toàn sẽ dẫn đến việc virus mất quyền điều khiển hoặc không thể kiểm soát được đĩa nếu virus không có mặt trong môi trường.
- Sự an toàn của sector khởi động nguyên thể và đoạn thân của virus cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các kỹ thuật về vị trí cất giấu chúng ta cũng đã phân tích ở các phần trên.
d. Kỹ thuật ngụy trang và gây nhiễu.
Kỹ thuật này ra đời khá muộn về sau này, do khuynh hướng chống lại sự phát hiện của người sử dụng và những lập trình viên đối với virus. Vì kích thước của virus khá nhỏ bé cho nên các lập trình viên hoàn toàn có thể dò từng bước xem cơ chế của virus hoạt động như thế nào, cho nên các virus tìm mọi cách lắt léo để chống lại sự theo dõi của các lập trình viên.
Các virus thường áp dụng một số kỹ thuật sau đây:
- Cố tình viết các lệnh một cách rắc rối như đặt Stack vào các vùng nhớ nguy hiểm, chiếm và xoá các ngắt, thay đổi một cách lắt léo các thanh ghi phân đoạn để người dò không biết dữ liệu lấy từ đâu, thay đổi các giá trị của các lệnh phía sau để người sử dụng khó theo dõi.
- Mã hoá ngay chính chương trình của mình để người sử dụng không phát hiện ra quy luật, cũng như không thấy một cách rõ ràng ngay sự hoạt động của virus.
- Ngụy trang: Cách thứ nhất là đoạn mã cài vào sector khởi động càng ngắn càng tốt và càng giống sector khởi động càng tốt. Tuy vậy cách thứ hai vẫn được nhiều virus áp dụng: Khi máy đang nôm trong quyền chi phối của virus, mọi yêu cầu đọc/ghi Boot sector (Master boot) đều được virus trả về một bản chuẩn: bản trước khi bị virus lây. Ðiều này đánh lừa người sử dụng và các chương trình chống virus không được thiết kế tốt nếu máy hiện đang chịu sự chi phối của virus.
e. Kỹ thuật phá hoại.
Ðã là virus thì bao giờ cũng có tính phá hoại. Có thể phá hoại ở mức đùa cho vui, cũng có thể là phá hoại ở mức độ nghiêm trọng, gây mất mát và đình trệ đối với thông tin trên đĩa.
Căn cứ vào thời điểm phá hoại, có thể chia ra thành hai loại:
- Loại định thời: Loại này lưu giữ một giá trị, giá trị này có thể là ngày giờ, số lần lây nhiễm, số giờ máy đã chạy, ... Nếu giá trị này vượt quá một con số cho phép, nó sẽ tiến hành phá hoại. Loại này thường nguy hiểm vì chúng chỉ phá hoại một lần.
- Loại liên tục: Sau khi bị lây nhiễm và liên tục, virus tiến hành phá hoại, song do tính liên tục này, các hoạt động phá hoại của nó không mang tính nghiêm trọng, chủ yếu là đùa cho vui.
IV. Các đặc điểm của F-VIRUS
So với B-virus thì số lượng F-virus đông đảo hơn nhiều, có lẽ do các tác vụ đĩa với sự hỗ trợ của Int 21 đã trở nên cực kỳ dễ dàng và thoải mái, đó là điều kiện phát triển cho các F-virus.
Thường thì các F-virus chỉ lây lan trên các file khả thi (có đuôi .COM hoặc .EXE), tuy nhiên một nguyên tắc mà virus phải tuân thủ là: Khi thi hành một file khả thi bị lây nhiễm, quyền điều khiển phải nôm trong tay virus trước khi virus trả nó lại cho file bị nhiễm, và khi file nhận lại quyền điều khiển, tất cả mọi dữ liệu của file phải được bảo toàn.
Ðối với F-virus, có một số kỹ thuật được nêu ra ở đây:
1. Kỹ thuật lây lan:
Các F-virus chủ yếu sử dụng hai kỹ thuật: Thêm vào đầu và thêm vào cuối
a. Thêm vào đầu file.
Thông thường, phương pháp này chỉ áp dụng cho các file .COM, tức là đầu vào của chương trình luôn luôn tại PSP:100h. Lợi dụng đầu vào cố định, virus chèn đoạn mã của chương trình virus vào đầu chương trình đối tượng, đẩy toàn bộ chương trình đối tượng xuống phía dưới. Cách này có một nhược điểm là do đầu vào cố định của chương trình .COM là PSP:100, cho nên trước khi trả lại quyền điều khiển cho chương trình, phải đẩy lại toàn bộ chương trình lên bắt đầu từ offset 100h. Cách lây này gây khó khăn cho những người khôi phục vì phải đọc toàn bộ file vào vùng nhớ rồi mới tiến hành ghi lại.
b. Thêm vào cuối file.
Khác với cách lây lan ở trên, trong phương pháp này, đoạn mã của virus sẽ được gắn vào sau của chương trình đối tượng. Phương pháp này được thấy trên hầu hết các loại virus vì phạm vi lây lan của nó rộng rãi hơn phương pháp trên.
Do thân của virus không nôm đúng đầu vào của chương trình, cho nên để chiếm quyền điều khiển, phải thực hiện kỹ thuật sau đây:
- Ðối với file .COM: Thay các byte đầu tiên của chương trình (đầu vào) bông một lệnh nhảy JMP, chuyển điều khiển đến đoạn mã của virus.
E9 xx xx JMP Entry virus.
- Ðối với file .EXE: Chỉ cần định vị lại hệ thống các thanh ghi SS, SP, CS, IP trong Exe Header để trao quyền điều khiển cho phần mã virus.
Ngoài hai kỹ thuật lây lan chủ yếu trên, có một số ít các virus sử dụng một số các kỹ thuật đặc biệt khác như mã hoá phần mã của chương trình virus trước khi ghép chúng vào file để ngụy trang, hoặc thậm chí thay thế một số đoạn mã ngắn trong file đối tượng bông các đoạn mã của virus, gây khó khăn cho quá trình khôi phục.
Khi tiến hành lây lan trên file, đối với các file được đặt các thuộc tính Sys (hệ thống), Read Only (chỉ đọc), Hidden (ẩn), phải tiến hành đổi lại các thuộc tính đó để có thể truy nhập, ngoài ra việc truy nhập cũng thay đổi lại ngày giờ cập nhật của file, vì thế hầu hết các virus đều lưu lại thuộc tính, ngày giờ cập nhật của file để sau khi lây nhiễm sẽ trả lại y nguyên thuộc tính và ngày giờ cập nhật ban đầu của nó.
Ngoài ra, việc cố gắng ghi lên đĩa mềm có dán nhãn bảo vệ cũng tạo ra dòng thông báo lỗi của DOS: Retry - Aboart - Ignoreô, nếu không xử lý tốt thì dễ bị người sử dụng phát hiện ra sự có mặt của virus. Lỗi kiểu này được DOS kiểm soát bông ngắt 24h, cho nên các virus muốn tránh các thông báo kiểu này của DOS khi tiến hành lây lan phải thay ngắt 24h của DOS trước khi tiến hành lây lan rồi sau đó hoàn trả.
2. Kỹ thuật đảm bảo tính tồn tại duy nhất.
Cũng giống như B-virus, một yêu cầu nghiêm ngặt đặt ra đối với F-virus là tính tồn tại duy nhất của mình trong bộ nhớ cũng như trên file.
Trong vùng nhớ, thông thường các F-virus sử dụng hai kỹ thuật chính: Thứ nhất là tạo thêm chức năng cho DOS, bông cách sử dụng một chức năng con nào đó trong đó đặt chức năng lớn hơn chức năng cao nhất mà DOS có. Ðể kiểm tra chỉ cần gọi chức năng này, giá trị trả lại trong thanh ghi quyết định sự tồn tại của virus trong bộ nhớ hay chưa. Cách thứ hai là so sánh một đoạn mã trong vùng nhớ ấn định với đoạn mã của virus, nếu có sự chênh lệch thì có nghĩa là virus chưa có mặt trong vùng nhớ và sẽ tiến hành lây lan.
Trên file, có thể có các cách kiểm tra như kiểm tra bông test logic nào đó với các thông tin của Entry trong thư mục của file này. Cách này không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối song nếu thiết kế tốt thì khả năng trùng lặp cũng hạn chế, hầu như không có, ngoài ra một ưu điểm là tốc độ thực hiện kiểm tra rất nhanh. Ngoài ra có thể kiểm tra bông cách dò một đoạn mã đặc trưng (key value) của virus tại vị trí ấn định nào đó trên file, ví dụ trên các byte cuối cùng của file.
3. Kỹ thuật thường trú
Ðây là một kỹ thuật khó khăn, lý do là DOS chỉ cung cấp chức năng thường trú cho chương trình, nghĩa là chỉ cho phép cả chương trình thường trú. Vì vậy nếu sử dụng chức năng của DOS, chương trình virus muốn thường trú thì cả file đối tượng cũng phải thường trú, mà điều này thì không thể được nếu kích thước của file đối tượng quá lớn.
Chính vì lý do trên, hầu hết các chương trình virus muốn thường trú đều phải thao tác qua mặt DOS trên chuỗi MCB bông phương pháp "thủ công". Căn cứ vào việc thường trú được thực hiện trước hay sau khi chương trình đối tượng thi hành, có thể chia kỹ thuật thường trú thành hai nhóm:
a. Thường trú trước khi trả quyền điều khiển.
Như đã nói ở trên, DOS không cung cấp một chức năng nào cho kiểu thường trú này, cho nên chương trình virus phải tự thu xếp. Các cách sau đây đã được virus dùng đến:
- Thao tác trên MCB để tách một khối vùng nhớ ra khỏi quyền điều khiển của DOS, rồi dùng vùng này để chứa chương trình virus.
- Tự định vị vị trí trong bộ nhớ để tải phần thường trú của virus vào, thường thì các virus chọn ở vùng nhớ cao, phía dưới phần tạm trú của file command.com để tránh bị ghi đè khi hệ thống tải lại command.com. Vì không cấp phát bọ nhớ cho phần chương trình virus đang thường trú, cho nên command.com hoàn toàn có quyền cấp phát vùng nhớ đó cho các chương trình khác, nghĩa là chương trình thương trú của virus phải chấp nhận sự mất mát do may rủi.
- Thường trú bông chức năng thường trú 31h: Ðây là một kỹ thuật phức tạp, tiến trình cần thực hiện được mô tả như sau:
Khi chương trình virus được trao quyền, nó sẽ tạo ra một MCB được khai báo là phần tử trung gian trong chuỗi MCB để chứa chương trình virus, sau đó lại tạo tiếp một MCB mới để cho chương trình bị nhiễm bông cách dời chương trình xuống vùng mới này. Ðể thay đổi PSP mà DOS đang lưu giữ thành PSP mà chương trình virus tạo ra cho chương trình đối tượng, phải sử dụng chức năng 50h của ngắt 21h.
b. Thường trú sau khi đoạt lại quyền điều khiển.
Chương trình virus lấy tên chương trình đang thi hành trong môi trường của DOS, rồi nó thi hành ngay chính bản thân mình. Sau khi thi hành xong, quyền điều khiển lại được trả về cho virus, và khi đó nó mới tiến hành thường trú một cách bình thường bông chức năng 31h của ngắt 21h.
4. Kỹ thuật ngụy trang và gây nhiễu
Một nhược điểm không tránh khỏi là file đối tượng bị lây nhiễm virus sẽ bị tăng kích thước. Một số virus ngụy trang bông cách khi sử dụng chức năng DIR của DOS, virus chi phối chức năng tìm kiếm file (chức năng 11h và 12h của ngắt 21h) để giảm kích thước của file bị lây nhiễm xuống, vì thế khi virus đang chi phối máy tính, nếu sử dụng lệnh DIR của DOS, hoặc các lệnh sử dụng chức năng tìm kiếm file ở trên để có thông tin về entry trong bảng thư mục, thì thấy kích thước file bị lây nhiễm vẫn bông kích thước của file ban đầu, điều này đánh lừa người sử dụng về sự trong sạch của file này.
Một số virus còn gây nhiễu bông cách mã hoá phần lớn chương trình virus, chỉ khi nào vào vùng nhớ, chương trình mới được giải mã ngược lại. Một số virus anti-debug bông cách chiếm ngắt 1 và ngắt 3. Bởi vì các chương trình debug thực chất phải dùng ngắt 1 và ngắt 3 để thi hành từng bước một, cho nên khi virus chiếm các ngắt này rồi mà người lập trình dùng debug để theo dõi virus thì kết quả không lường trước được.
5. Kỹ thuật phá hoại
Thông thường, các F-virus cũng sử dụng cách thức và kỹ thuật phá hoại giống như B-virus. Có thể phá hoại một cách định thời, liên tục hoặc ngẫu nhiên. Ðối tượng phá hoại có thể là màn hình, loa, đĩa,...
Theo HVA
0 nhận xét:
Post a Comment